Thủ tục đăng ký bào chữa theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Có cải cách, nhưng vẫn đầy bất cập

Cập nhật: 5/9/2017 | 3:47:23 PM

Việc Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 bỏ quy định cấp giấy chứng nhận bào chữa và thay bằng thủ tục “đăng ký bào chữa” được coi là quy định “cải cách hành chính” nhằm đảm bảo kịp thời quyền có người bào chữa cho người phạm tội. Tuy nhiên, xung quanh quy định về thủ tục đăng ký bào chữa vẫn còn những vướng mắc gây khó cả cho luật sư và cơ quan tiến hành tố tụng.

“Bình mới, rượu cũ”?

Điều 78 BLTTHS 2015 về thủ tục đăng ký bào chữa quy định:1. Trong mọi trường hợp tham gia tố tụng, người bào chữa phải đăng ký bào chữa”.

Khoản 2 Điều 78 quy định các loại giấy tờ người bào chữa phải xuất trình khi đăng ký bào chữa. Cụ thể, Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội. Người đại diện của người bị buộc tội xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân kèm theo bản sao có chứng thực và giấy tờ có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về mối quan hệ của họ với người bị buộc tội. Bào chữa viên nhân dân xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử bào chữa viên nhân dân của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý xuất trình văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực.

Trường hợp chỉ định người bào chữa quy định của Bộ luật này thì Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề hoặc văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề là cá nhân. Bào chữa viên nhân dân xuất trình Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử bào chữa viên nhân dân của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận. Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý xuất trình Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và văn bản cử người thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.

Khoản 4 Điều này quy định, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa quy định tại khoản 5 Điều này thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản.

Các trường hợp mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng từ chối việc đăng ký bào chữa theo khoản 5 Điều này là: Trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 72 của Bộ luật này; Người bị buộc tội thuộc trường hợp chỉ định người bào chữa từ chối người bào chữa.

Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng, trừ các trường hợp: Người bị buộc tội từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa; Người đại diện hoặc người thân thích của người bị buộc tội quy định tại điểm b khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa.

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hủy bỏ việc đăng ký bào chữa và thông báo cho người bào chữa, cơ sở giam giữ khi thuộc một trong các trường hợp: Khi phát hiện người bào chữa thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 72 của Bộ luật này; Vi phạm pháp luật khi tiến hành bào chữa.

Trước nhiều ý kiến than phiền của các luật sư, Quốc hội đã yêu cầu phải bỏ quy định về việc cấp giấy chứng nhận bào chữa. Tuy nhiên, nếu không quy định thì trình tự tố tụng sẽ lỏng lẻo. Vì vậy ban soạn thảo Bộ LTTHS 2015 đã lồng ghép quy định “thủ tục đăng ký bào chữa”.

Về mặt quy định, có thể thấy đây là một bước cải cách hành chính, nhưng theo quan điểm của nhiều luật sư, quy định này thực chất là “bình mới rượu cũ”. “Quy định đăng ký bào chữa hay thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa về bản chất không thay đổi. Luật cũ thì cấp Giấy chứng nhận người bào chữa, luật mới thì cơ quan tố tụng ra Văn bản thông báo người bào chữa. Chung quy luật sư vẫn phải nộp 01 bộ giấy tờ cho cơ quan tiến hành tố tụng như bản sao có chứng thực thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của của người bị buộc tội hoặc người đại diện, người thân thích của họ, vẫn phải có giấy phép do cơ quan tố tụng cấp, vẫn phải phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy có khác nào bình mới rượu cũ” - Luật sư Lê Ngọc Hà - Trưởng Văn phòng luật sư Đa Phúc (Đoàn luật sư Hà Nội) nhận định.

Ra thông báo chấp nhận đăng ký bào chữa trong 24 giờ có khả thi?

Theo quy định tại Điều 78 BLTTHS 2015 nói trên, trong vòng 24 giờ kể từ khi nhận đầy đủ giấy tờ của người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ, vào sổ đăng ký bào chữa và gửi thông báo cho người đăng ký.

“BLTTHS 2015 chỉ quy định chung chung là “cơ quan tiến hành tố tụng kiểm tra giấy tờ và ra thông báo cho người đăng ký bào chữa”. Nhiều ý kiến đã thắc mắc “cơ quan tố tụng” trong trường hợp này là ai? Điều tra viên, kiểm sát viên hay thẩm phán có được quyền ra thông báo bào chữa hay chỉ lãnh đạo cơ quan tiến hành tố tụng mới được quyền ra thông báo?” - Luật sư Lê Ngọc Hà đặt vấn đề.

Theo điểm a, khoản 2 và khoản 4 Điều 78 này thì khi đăng ký bào chữa, Luật sư xuất trình Thẻ luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc tội cho cơ quan có thẩm quyền, trong thời hạn  24 giờ cơ quan có thẩm quyền phải vào sổ đăng ký và thông báo cho luật sư.

Trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo ngay cho người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để có ý kiến về việc nhờ người bào chữa theo quy định của Khoản 3, Điều 75 BLTTHS 2015. Với các quy định như trên, trường hợp thuận lợi, trong 24 giờ cơ quan tiến hành tố tụng có thể tiếp nhận thủ tục điều kiện bào chữa, sau đó vào nhà tạm giữ, trại tạm giam gặp hỏi người bị buộc tội và quy định điều kiện bào chữa, thông báo cho người bào chữa.

Luật sư Hà nhận định: trên thực tế, việc cán bộ của cơ quan tiến hành tố tụng như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đến tận nơi tạm giam, tạm giữ gặp để lấy ý kiến người bị buộc tội về sự đồng ý hay không đồng ý nhờ luật sư bào chữa, sau đó cơ quan tiến hành tố tụng vào sổ đăng ký và thông báo cho người đăng ký bào chữa trong thời hạn 24 giờ là không khả thi. Bởi không phải lúc nào nơi tạm giam, tạm giữ người bị buộc tội cũng ở cùng địa hạt, cùng phạm vi tỉnh, thành phố với trụ sở của cơ quan tiến hành tố tụng. Có nhiều trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng ở Miền Nam đã khởi tố vụ án xảy ra tại Miền Nam nhưng bị can lại bị tạm giữ, tạm giam ở Miền Bắc thì để làm đầy đủ các thủ tục, quy trình luật định như trên lại là “làm khó” cho cơ quan tiến hành tố tụng.

Quy định tại khoản 4 Điều 78 BLTTHS năm 2015 về việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gửi văn bản thông báo người bào chữa trong vòng 24 giờ khi không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa là nhằm tạo điều kiện để người bào chữa có khả năng hỗ trợ kịp thời người bị bắt, người bị tạm giữ thực hiện quyền được bào chữa của họ. Tuy nhiên quy định này vẫn còn “vênh” với quy định tại khoản 1 Điều 183 BLTTHS năm 2015 về hỏi cung bị can. Theo đó Việc hỏi cung bị can do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó”. Nếu sau khi được giải thích về quyền được nhờ người bào chữa  theo Điều 60 bị can mới có nguyện vọng mời luật sư bào chữa thì lại không có quy định nào để dừng việc hỏi cung lại để có sự tham gia của luật sư, trong khi việc cấp GCN bào chữa phải qua các thủ tục đòi hỏi một khoảng thời gian từ 24 giờ trở lên. Do vậy, thực tế đã xảy ra tình trạng một số trường hợp bị can bị bức cung, dùng nhục hình ngay tại nơi tạm giam, tạm giữ vì không có sự tham gia kịp thời của người bào chữa từ những bản cung đầu tiên.

Đây cũng là một trong nhiều vướng mắc rất dễ xảy ra trong quá trình áp dụng các quy định mới của BLTTHS năm 2015 về đảm bảo quyền của người bào chữa cũng như đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự. Thiết nghĩ các cơ quan chức năng cần sớm nghiên cứu, ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về quy định này ngay sau khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực nhằm loại bỏ những vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật cho cả đôi bên là người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng. 

Luật sư Lê Ngọc Hà tư vấn pháp luật trên VOV1 Đài tiếng nói Việt Nam
Bài đọc nhiều nhất